Thứ Hai, 9 tháng 11, 2015

Khánh thành chùa Pháp Minh xã Mỹ Hạnh Nam- Đức Hòa

Sáng ngày 10/09/2014 (17/08/Giáp Ngọ), chùa Pháp Minh tọa lạc tại ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An được khánh thành với sự tham dự và chứng minh của Chư tôn Giáo phẩm T.Ư GHPGVN, BTS các tỉnh thành và các cấp chính quyền tỉnh Long An.

Đến tham dự có ông Bùi Hữu Dược - Vụ trưởng Vụ Phật giáo Ban Tôn giáo Chính phủ; bà Mai Thị Hạnh phu nhân Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và thân nhân tộc họ Trương cùng hai ngàn tín đồ các quận huyện nội và ngoại thành về tham dự.



 
Hơn hai năm, ngoài tộc họ Trương, ngôi chùa bị tiêu hoại bởi chinh chiến, nay được sự hỗ trợ của GHPGHVN, Tổ đình Vĩnh Nghiêm và Tập đoàn Vincom chung tay góp sức đã hoàn thành ngôi Tam Bảo khang trang, uy vệ. Chùa Pháp Minh tuy được gọi là trùng tu, tái thiết, nhưng nét kiến trúc tổng hợp ba miền. Nội điện phụng thờ theo phong cách miền Nam, cấu trúc bao lơn khung gió, cửa điện bốn bề mang dáng dấp miền Bắc và Trung. Hậu điện dựa vào giả sơn, tiền cung trấn cứ ao thủy. Chùa vẫn còn giữ được mấy pho tượng cổ. Đại điện phụng thờ bảo tượng Bổn sư  cũng bằng gỗ thếp vàng tương xứng với nội cung. 

Trên vuông đất thoáng đạt tại vùng quê, sự hiện hữu của Pháp Minh bề thế, tạo cho cư dân bản địa một niềm tin tâm linh vững chãi. Giáo hội Phật giáo Việt Nam không chỉ có thêm một cơ sở thờ tự, sự hiện diện của chùa Pháp Minh xác định niềm tin của người dân, biến mảnh đất của bom đạn một thời trở thành vùng an bình trong hiện tại, sẽ bồi đắp sự an lạc cho cuộc sống cày sâu cuốc bẫm bao đời của cha ông bản xứ, phải chăng là sự hãnh diện chung cho những người con Phật!

 
    Rất nhiều lẵng hoa, kỷ vật từ Trung ương đến các địa phương gửi đến chúc mừng, Trung ương Giáo hội cũng như BTS GHPGVN tỉnh Long An tiếp nhận trước những tràng pháo tay hoan hỷ.
Khâu tiếp đãi hậu trù do Tổ đình Vĩnh Nghiêm tổ chức rất chu đáo, tiểu thực sáng cũng như trai phạn trưa cho hơn hai nghìn người có mặt khá vất vả. Mọi người đều hoan hỷ khi đại diện tộc Trương trao hồ sơ pháp lý cúng dường đất và cơ sở thờ tự cho Giáo hội do HT.Thích Thiện Nhơn đại diện tiếp nhận.
Mọi thủ tục hoàn mãn khi đại diện Giáo Hội và chính quyền cắt băng khánh thành.
                                                             

    Lịch sử hình thành và phục dựng chùa Pháp Minh




    Năm 1910, Hoà thựơng tu theo đạo Minh Sư và được gọi là Ông lão Năm. Đạo Minh Sư chủ trương “Thờ cúng Phật, tu theo Lão giáo, sống theo Nho gia’’, nên Hoà thượng có điều kiện so sánh nhận thấy Phật đạo cao siêu hơn. Vì vậy năm 1933, Hoà thượng đã hành hương sang đất Phật tại Ấn Độ và sau đó đến Thanh Sơn Thiền Viện ở Hồng Kông để xuất gia theo Phật giáo. Tại đây Hoà thượng được Tổ Hiển Kỳ trao truyền Đại giới và ban cho pháp danh Tu Tịnh, pháp hiệu Liễu Lạc, thuộc đời thứ 49 tông Thiên Thai Giáo Quán. Sau khi thọ giới xong, Hoà thượng về quê, biến ngôi nhà đang ở thành chùa và lấy hiệu là Pháp Minh, đồng thời làm Trụ trì khai sơn đời thứ nhất. Bấy giờ, chùa làm bằng gỗ quý, cột tròn rất to, mái lợp ngói âm dương, xây dựng theo phong cách nóc bánh ít cổ xưa. Nhiều vị chân tu đã xuất gia tu học ở đây như: Hoà thượng Thích Đạt Hảo, Ni trưởng Thích Nữ Đạt Tâm, v.v…

    Hoà thượng Thích Liễu Lạc, thế danh Trương Văn Trình, sinh năm 1878 (Kỷ Mão) vốn là bậc đại điền chủ, nổi tiếng nhân hậu, đạo đức khắp vùng. Phụ thân là cụ ông Trương Văn Thêm, mẫu thân là cụ bà Nguyễn Thị Em. Hoà thượng là người con út trong gia đình có bốn anh chị em.

    Ngày mùng 2 tháng Chạp năm Bính Tý (nhằm ngày 14 tháng 1 năm 1937), Hoà thượng Thích Liễu Lạc an lành viên tịch, thế thọ 59 tuổi, tháp của Ngài được xây ngay trong khuôn viên chùa Pháp Minh. Ni trưởng Thích Nữ Liễu Cổ thế danh Nguyễn Thị Bộ kế thế trụ trì chùa Pháp Minh, phát triển đạo pháp ngày thêm hưng thịnh.
Khoảng năm 1948, cuộc kháng chiến chống Pháp nổi lên, chùa là địa điểm bí mật nuôi giấu dân quân kháng chiến. Bọn mật thám của giặc Pháp bí mật dò biết, quan huyện Đức Hoà ra lệnh cho Cai Nhung, đem lính Mã Tà cướp phá chùa Pháp Minh và chở cột, kèo, mè… về huyện.

    Năm 1950, chiến tranh tạm lắng xuống, chùa được bà con trong thân tộc họ Trương dựng lên bằng cây lá còn sót lại của chùa cũ để thờ cúng Phật.

    Khoảng năm 1953 Ni trưởng Thích Nữ Liễu Cổ viên tịch, chùa được các thầy về trụ trì, nhưng cư trụ không lâu phải bỏ đi vì chiến tranh. Cuối cùng, cô Trương Thị Ba con cháu trong tộc họ Trương được chỉ định về trông coi chùa.
Trong thập niên 60 của thế kỷ 20, thời kỳ chống Mỹ cứu nước, chùa là trạm cứu thương, nơi tiếp tế che giấu cán bộ và nuôi dưỡng thương bệnh binh.Tại chùa hiện nay còn lưu lại những căn hầm bí mật mà các vị lãnh đạo của ta thường đến họp và trú ngụ khi có những trận bố càn của quân địch.

    Năm Mậu Thân (1968), chùa lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nhiều cán bộ chiến sĩ đã hy sinh ngay trên đất chùa nhưng không để lại tên tuổi cũng như quê quán. Nhà chùa và bà con thân tộc đã an táng những chiến sĩ vô danh này trong nghĩa trang tộc họ Trương bên cạnh chùa. Nay những ngôi mộ ấy vẫn còn, nằm cách chùa 80 mét về hướng Đông.

    Năm 1975, Miền Nam hoàn toàn giải phóng, chùa được con cháu trong dòng họ Trương dựng lại bằng cây và lợp lá.
Năm 1997, được sự giúp đỡ của gia đình ông bà Trần Thiện Ngôn (cháu ngoại của Hoà thượng Liễu Lạc) chùa được xây lên ba gian, tường gạch quét vôi, mái tôn đơn sơ để dân làng đến cầu nguyện lễ Phật.

    Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc, chùa bị phá hoại nặng nề. Đặc biệt trong một thời gian dài chùa không có Trụ trì và Tăng Ni trông nom, đất khuôn viên chùa bị sang nhượng mua bán và dần dần xây thành nhà ở của người thế tục.
Năm 2010, Pháp tôn của Hoà thượng Liễu Lạc là phật tử Tắc Nghiêm (bà Trương Minh Tuyết: Đệ tử tại gia của Hòa thượng Đạt Hảo) cũng là con cháu dòng họ Trương đã mua lại toàn bộ các thửa đất của chùa, và năm 2012 bà phát tâm cho khởi công xây dựng mới toàn bộ chùa Pháp Minh bằng gỗ như diện mạo khi xưa. Công trình được thực hiện bởi phật tử Tắc Nghiêm tức bà Trương Minh Tuyết là con cháu trong họ tộc, dưới sự chỉ đạo của cô Chính (HậuNghĩa); cố vấn kỹ thuật: Thượng tọa Thích Thanh Phong và Thượng tọa Thích Giác Dũng; tư vấn thiết kế: Phật tử Trương Thế Quốc; phụ trách thi công chánh điện: Phật tử Thân Văn Rớt; phụ trách thi công bê tông: Phật tử Trương Thanh Sơn.

    Gần nửa thế kỷ sau ngày hoà bình tái lập, chùa Pháp Minh đã được xây dựng lại bằng gỗ như xưa. Các căn hầm bí mật được giữ nguyên hiện trạng, các kỹ kỹ vật khi xưa của chùa như 8 pho tượng bằng gỗ do Hoà thượng Liễu Lạc tự tay tạc, nay đã được thỉnh lên thờ tại chánh điện, 8 viên đá tảng hình vuông của nền chùa năm xưa, nay được đặt lại dưới hàng cột phía trước của chánh điện, để con cháu nhớ tới công đức của Tổ tiên và mong đền đáp công ơn Tìền hiền liệt tộc.

    Trong hai cuộc chiến, Đức Hòa, Long An, Củ Chi, Hố Bò cũng như hầu hết các vùng trên đất nước đều không tránh khỏi đạn bom, nhất là tên bay đạn lạc dành cho những số phận kém may mắn. Ngôi chùa Pháp Minh cũng nằm trong số những ngôi chùa vùng sâu vùng xa đã bị hủy diệt hoàn toàn.

    Sau khi thống nhất hai miền, khắp nơi một số chùa mới được tôn tạo, một vài chùa bị hủy diệt trong thời chiến cũng được tái phục hồi; Nghệ An xa xưa có trên 400 ngôi Tam Bảo cũng bị san bằng vào thời cải cách ruộng đất, nay đang được khôi phục bốn cảnh. Một số nơi xa xôi trong các tỉnh cũng đang xin phép phục hồi nguyên trạng trên nền chùa cũ, có nơi thuận lợi, có chỗ cũng gặp khó khăn. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét